Bài này xét đến những khía cạnh khác của hệ thống Ko-so-a-do căn bản, bổ sung thêm một chút kiến thức nâng cao hơn giúp bạn linh hoạt trong giao tiếp khi sử dụng đến こ, そ, あ, ど.
Những phân biệt trong hệ thống Ko-so-a-do không chỉ bị quy định bởi những yếu tố về cự ly, địa điểm, phương hướng (mang tính chất vật lý có thể đo lường được) nhưng nhiều khi cũng bị quy định bởi những yếu tố hoàn toàn mang tính chất tâm lý. Một vài yếu tố cơ bản như sau:
(lưu ý: trong bài này, ví dụ khi nói “dùng hệ そ” thì có nghĩa là tất cả những đại từ chỉ định theo chiều ngang của bảng hệ thống Ko-so-a-do, cũng tương tự với các hệ khác)
Khi chỉ những đối tượng mà người nói nghĩ rằng mình biết rõ thì dùng hệ こ (ko).
Tuần sau sẽ có một thầy giáo mới tới. Thầy giáo này là một giáo sư chuyên về lịch sử Nhật Bản của người đại học Tokyo.
Trong ví dụ trên, người nói đưa ra một thông tin mới và nghĩ rằng mình là người biết rõ thông tin về thầy giáo nhiều hơn người nghe nên chủ ý sử dụng こ để giới thiệu. Đây hoàn toàn là yếu tố tâm lý không hề bị xác định bởi yếu tố vật lý.
Khi chỉ những đối tượng mà bản thân người nói không biết thì dùng hệ そ (so).
A:4時に
B:その
A:4 giờ tôi sẽ đợi ở quán giải khát Lan nhé!
B:Quán đó ở đâu?
Người B hoàn toàn không có thông tin gì về quán đó nên đã sử dụng そ để chỉ định. Đây rõ ràng cũng là yếu tố về hiểu biết thông tin, chứ không có nghĩa quán đó ở vị trí nào đó cách xa người nói B (vì thậm chí người B nói cũng không biết nó ở đâu).
Khi chỉ những đối tượng nằm trong vốn tri thức chung của cả người nói và người nghe thì dùng hệ あ (a).
A:7時15分に
B:あそこは 人が 多くて、
A:7 giờ 15 tôi đợi trước cửa rạp chiếu phim được không?
B:Ở đó đông người nên tìm nhau khó lắm.
Trường hợp này, cả hai người A và B điều hiểu rõ vị trí mà họ cùng nhau nói tới, người B cũng biết người A hiểu vị trí đó nên đã chủ động sử dụng あそこ.
Những lưu ý này giúp bản hiểu rõ hơn bản chất của こ、そ、あ và có thể sử dụng nó cách chính xác trong giao tiếp tiếng Nhật thường ngày.