つまらないものですが...
Dịch xác nghĩa: Món quà này cũng không đáng gì…
Người Việt Nam mình đôi khi cũng nói như vậy nên có lẽ không khó hiểu lắm. Đây không phải ý chê bai, kiểu như vì nó chẳng đáng gì nên tôi cho anh ?!?. Thực ra đây là ý khiêm tốn, vì nó cũng không đáng gì nên mong anh nhận cho.
Hoặc là một cách nói khác cũng mang ý nghĩa khiêm tốn như là:
珍しくもございませんが...
Cái này cũng không có gì đặc biệt…
Cách nói như trên thường dùng khi bạn tặng cho người Nhật những món đồ gia đình kiểu như bia, cà phê, trái cây, hay một món quà cuối năm…chẳng hạn. Khi nói xong, người nói thường kèm どうぞ phía sau và đưa tay trao quà mong đối phương nhận quà của bạn.
Tuy nhiên những cách nói trên có vẻ câu nệ và nghi thức. Nó vẫn được sử dụng rộng rãi giữa người Nhật với nhau. Nhưng nếu là người trẻ, thanh niên, thì cách nói có vẻ “phóng khoáng” hơn một chút, không tỏ ý “tự chê” nhưng khen món quà của mình:
Nếu món quà của bạn là đồ ăn, bạn có thể nói:
これ、とてもおいしいんですよ。
Cái này ngon lắm!
Nếu món là của bạn quần áo, trang sức chẳng hạn, bạn có thể nói:
きっとお
Tôi nghĩ chắc nó sẽ hợp với bạn.
Còn nếu khi bạn trao tặng người Nhật một món quà do chính tay bạn làm, thì bạn nên thể hiện sự khiêm nhường trong việc cố gắng thực hiện món quà đó bằng cách nói như là:
お
Tạm dịch: Món quà tôi làm còn vụng về, nhưng [mong bạn nhận cho]
Khi bạn nói như thế, không người Nhật nào nỡ chê bai đâu, nhưng họ rất quý những món quà cho chính chủ nhân thực hiện, họ sẽ trân trọng công sức của bạn. Bạn cũng có thể nói như là:
うまくできなかったですけど...
Tôi tự làm mà không khéo lắm, nhưng [mong bạn nhận cho]
Cũng có một cách diễn đạt đơn giản, vừa tỏ ý khiêm nhường, không đề cao giá trị món quà mà còn đề cao giá trị tinh thần, kiểu như là:
心ばかりの品ですが...
Đây là cả tấm lòng của tôi, [mong bạn nhận cho]
Dù nói gì đi nữa, cũng không quên, thái độ tặng quà vẫn quan trọng hơn giá trị món quà. Hãy nắm vững những cách nói này để học cách tặng quà giống như người Nhật.

Cho m hỏi chút
trong sách minano cơ bản có viết ほんの気です。thì nó giống cái nào như ở trên