Ví dụ:
たべます。
Tôi ăn.
おいしいです。
Món ăn này ngon.
Như bạn biết trong tiếng Anh, chủ từ khá quan trọng, và chi phối cả động từ (ví dụ số ít, số nhiều, ngôi thứ 1, ngôi thứ 2…). Ví dụ động từ “go – đi” bị chi phối khi chủ ngữ khác nhau trong “I go” và “she goes”. Cả tiếng Tây Ban Nha cũng như thế.
Trái lại, động từ tiếng Nhật không bị chi phối bởi những yếu tố phân biệt như thế(mà là những yếu tố khác). Ví dụ, một câu “食べます” có thể dịch ra được tất cả các nghĩa như là “Tôi ăn”, “chúng ta ăn”, “bạn ăn”, “anh ấy ăn”, “cô ấy ăn”, “họ ăn”, hay “nó ăn”.
Thế nhưng, điều đó không có nghĩa, động từ tiếng Nhật không cung cấp đầy đủ thông tin để người nói diễn đạt. Động từ tiếng Nhật dù không chứa thông tin về số lượng hay ngôi thứ (như nêu trên) nhưng chứa nhiều những thông tin khác về thì, kính ngữ, bị động…
Như vậy, làm thế nào để biết được đâu là chủ ngữ đang nói đến? Dựa vào ngữ cảnh, ngữ cảnh nói sẽ quyết định đâu là chủ ngữ đang nói đến.
Nếu giải thích vì sao không nói chủ ngữ ra, có mất mát gì đâu? Thì đúng là không sẽ không sai ngữ pháp nhưng thiếu tự nhiên trong giao tiếp. Bạn cần chấp nhận cách nói của người Nhật, thích ứng với thói quen ngôn ngữ của họ thì diễn đạt sẽ tự nhiên hơn.
Đặc biệt, khi nói về mình, không cần phải lúc nào cũng “watashi wa”, nó không chỉ thiếu tự nhiên về vấn đề ngữ pháp, nhưng nó còn chứa ý nghĩa “thể hiện cá nhân” hoặc chút “tự kiêu” khi bạn cứ nhấn mạnh chính mình.